Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

TUÂN PHỤC VÀ BẤT TUÂN PHỤC


Đây là trích đoạn từ cuốn sách « Đời sống trách nhiệm, tuân phục và bất tuân phục theo Dietrich Bonhoeffer » (NXB Tôn Giáo 2009) :

Tại sao chúng ta đặt câu hỏi về sự tuân phục và bất tuân phục ? Chúng ta biết rằng ý tưởng về sự bất tuân phục rất mơ hồ, lắm khi gây hiểu lầm cho nhiều người. Thường thì nó được xem như điều đáng bị lên án vì nó làm cho chúng ta liên tưởng tới bạo lực. Tuy nhiên, đây không phải là một câu hỏi mang tính lý thuyết, trừu tượng, nhưng là một vấn đề xã hội rất cụ thể. Những nhân vật lớn của lịch sử chúng ta gần đây như Martin Luther King[1] và Mohandas Karamchand Gandhi[2] đã vận dụng nó trong cuộc đấu tranh vì quyền con người. Họ là những con người đã chống lại những chế độ bất công. Sự bất tuân phục của họ không gì khác hơn là bày tỏ xác tín của mình, những xác tín mang tính nhân văn cũng như tôn giáo. Đối với họ, những quyền cơ bản của con người là những yếu tố nền tảng, không có chúng không có bất cứ một xã hội công bằng và nhân bản nào tồn tại. Một xã hội công dân bao hàm tự do và bình quyền.

Sự bất tuân phục đạt tới sự cao thượng của nó qua những gương mặt lịch sử vĩ đại đã thực hiện sự bất tuân phục dân sự như vũ khí chống lại những tổ chức xã hội, chính trị bất công. Trong số những nhân vật lịch sử này chúng ta phải kể đến Dietrich Bonhoeffer, người đã dấn thân chống lại chế độ quốc xã nhân danh sự « phục tùng » đối với Đức Kitô. Tựa đề của cuốn sách, Widerstand und Ergebung (kháng cự và phục tùng), tập hợp những lá thư trong tù của ông, nói cho chúng ta cách chính xác về lưỡng đối cực của hành động tuân phục và bất tuân phục. Hành động này không được thúc đẩy bởi những động lực chính trị. Nó biểu lộ sự trung thành của ông với Tin Mừng : « Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm » (x. Cv 5,29). Chúng ta biết rằng bất tuân phục cũng có một vị trí quan trọng trong Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo[3].

Nhưng làm sao chúng ta có thể đề cập đến vấn đề bất tuân phục trong thần học ? Đối với Dietrich Bonhoeffer, sự bất tuân phục là một hành vi mang tính thần học vì nó được đặt nền tảng trong Đức Giêsu Kitô. Tuân phục và bất tuân phục có một mối tương quan tương tác. Tuân phục nhấn mạnh khía cạnh phục tùng, khiêm hạ, chấp nhận, khả năng chịu đựng ; trong khi bất tuân phục gắn liền với sự kháng cự, đối lập, sự vi phạm…. Tuy nhiên, dù ở khía cạnh nào, điều quan trọng đó là sự tự do có trách nhiệm. Đó là tư tưởng của Dietrich Bonhoeffer sẽ giúp chúng ta suy tư về sự tuân phục và bất tuân phục.

Tuân phục không thể tách lìa với suy tư về « đời sống trách nhiệm ». Nó có thể biến thành hình thức bất tuân phục, được hiểu như sự khẳng định về sự tuân phục đối với một quyền bính lớn hơn. Nói cách khác, tuân phục Thiên Chúa có thể dẫn chúng ta tới bất tuân phục đối với một tổ chức con người. Đó chính là thách đố thực sự đối với luân lý Kitô giáo. Đâu là thái độ của người Kitô hữu trong một xã hội mà những quyền bính chính trị đi ngược lại những giá trị đạo đức và tôn giáo ?

Câu hỏi này mang chiều kích Kitô học trong nghĩa nó đưa chúng ta về với thái độ của Đức Kitô. Một mặt, Người đã « vâng phục đến chết và chết trên cây thập tự » (Pl 2,5-8) trong việc trung thành với ý muốn của Chúa Cha ; mặt khác, trong suốt đời sống Người đối lập với những quyền bính bất công. Cũng vậy, nếu như thánh Phao-lô mời gọi những Kitô hữu thuộc cộng đoàn Rôma tùng phục chính quyền, « vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập » (x. Rm 13, 1-7), bởi vì quyền bính không làm tổn hại những giá trị con người.

Trần Văn Khuê, aa


[1] Martin Luther King (1929-1968), mục sư tin lành, đấu tranh một cách bất bạo động đòi quyền cho những người Mỹ da màu và chống lại việc kỳ thị chủng tộc. Trong cuộc đấu tranh ông nổi tiếng với bài diễn văn : « I have a dream » (Tôi có một giấc mơ). Ông đã được nhận giải thưởng Nobel hòa bình năm 1964 và bị ám sát vào năm 1968.
[2] Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948), một vị lãnh đạo tinh thần, một nhà đấu tranh bất bạo động của Ấn Độ. Gandhi đã đấu tranh vì nền độc lập của Ấn Độ trong thời kỳ đô hộ của người Anh. Ông được tôn vinh là vị  « cha già dân tộc » của Ấn Độ.
[3] X. GLHTCG, số 1903.

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

BẠN LÀ AI ?


Ngay cả khi là người lạc quan nhất, bạn và tôi không thể không nặng lòng trong chút suy tư về thân phận con người. Đó không phải là thứ suy nghĩ viển vông hay lý thuyết đối với con người chung chung, mà là con người cụ thể với gương mặt trần trụi đang thực sự mỏi mệt trên những bước đường cuộc sống. Họ là người không có mấy nơi mình niềm hy vọng, nhưng hy vọng của họ thật sự lớn lao.

“Một nắng hai sương” :

Ai nghe câu nói “một nắng hai sương” lại không thể không liên tưởng tới con người lam lũ suốt ngày đêm vì cuộc sống hôm nay và ngày mai. Gương mặt kham khổ của con người đặt mình an phận trong kiếp nhọc nhằn. Nhưng, không còn phương cách nào khác hơn. An phận không phải để cho chính mình, nhưng cho người khác : ước mong sao cho người yêu thương có một tương lai. Tương lai, cho dù đó là thứ tương lai không xác định, không được đảm bảo, không rõ ràng, hay chỉ là mây gió mịt mờ, giông bão trùng khơi. Ai đảm bảo họ sẽ có được cuộc sống nên người, hay chỉ còn là công cụ trong cái xã hội hỗn tạp đầy kẻ ngông nghênh ? Con người “một nắng hai sương” đang hy sinh cho ngày mai hy vọng.

Ngục tù tăm tối :

Đau buồn, nhưng kiêu hãnh là bước chân của con người khát khao tìm kiếm lẽ công bình, sự thật và hòa bình. Ngục tù, đêm tối như thứ định mệnh oan nghiệt được tiên báo trước. Họ chiến đấu kiên cường như người vô vọng. Bởi lẽ, trước mặt họ pháp quyền là bức tường thành đầy gai nhọn, là con vật hoang dã chỉ biết gầm gừ và tấn công cách hung dữ cho tới tột cùng. Con người xa lạ, đối với chúng, không phải người đến từ nơi khác, mà là không thuộc chủng loại làm đàn với chúng. Ngục tù tăm tối nơi tâm hồn gai sắt và móng vuốt của loài thú dữ.

Bình minh ló dạng :

Nếu lúc nào đó bạn bi quan, xin đừng thất vọng. Chưa bao giờ có gì thắng nỗi lòng nhân tràn đầy khát vọng yêu thương và tìm kiếm điều chân thật, công lý và hòa bình. Lòng nhân lớn lao và vĩ đại ! Cuộc chiến đấu cho điều thiện mang nhiều thương đau. Con người lương thiện dễ bị tổn thuơng. Tuy nhiên, bình minh sẽ ló dạng nơi lòng can đảm, ý chí kiên cường và sự trung tín cho tới cùng với Chân – Thiện – Mỹ.

Trần Văn Khuê, aa




Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

MẶT NẠ ÂN HUỆ


Ân huệ là đặc ân mà con người trao ban cho nhau. Nó là quà tặng quý giá. Tuy nhiên, hai từ “ân huệ” cũng có thể trở thành sáo ngữ và thái độ ngạo nghễ ghê tởm của kẻ ngạo mạn vô liêm sĩ, của kẻ độc tài, của kẻ theo (hay bị nhồi sọ bởi) chủ thuyết giáo điều cuồng tín và phi nhân. Ân huệ là bức màn phong của sự giết chết, bạo lực và hận thù. Không có gì khủng khiếp hơn sự thâm độc núp bóng ân huệ. Nó không còn là lòng bao dung, sự quý trọng, tình liên đới, sự chân thật, nhưng chỉ còn là mặt nạ.

Mặt nạ ân huệ là thứ quan hệ lợi ích. Đối tác là phương tiện, là công cụ hợp tác nhằm củng cố và tạo lợi ích cho nhau và cho nhóm quyền lợi cao hơn. Ân huệ là sự ngã giá và ăn chia sòng phẳng. Chấp nhận ân huệ là chấp nhận thỏa hiệp – thứ thỏa hiệp đen tối. Mối dây thỏa thiệp là bằng mọi giá và cho tới cùng. Cái bằng mọi giá và cho tới cùng nhiều lúc dẫn người ta tới tội ác.

Mặt nạ ân huệ là thứ lời văn bộc lộ con người thiếu lý trí và thiếu đạo đức. Đó là lời văn đại loại được trình bày trong lời tuyên án đối với anh em nhà Đoàn Văn Vươn : “thân nhân tốt”, “thành khẩn khai báo”, “VKS Hải Phòng đề nghị phạt ông này 5-6 năm tù, bằng nửa mức thấp nhất của khung hình phạt” ;  và quả thật, sau đó ông Đoàn Văn Vườn bị “phạt”, “tuyên phạt” 5 năm tù giam ! Một bản án 5 năm tù giam gây nhiều tranh cãi được trình bày cách đơn giản và ngắn gọn : “phạt”, “tuyên phạt”. Đối với nghành tư pháp Việt Nam đây là hình thức phạt “ân huệ” !

Đời sống xã hội của cộng đoàn nhân loại không thể được xây dựng trên mặt nạ ân huệ. Nó là sự dối trá che dấu tội ác, là toan tính hẹp hòi đến thù hận núp bóng lòng nhân giả tạo. Những giá trị nền tảng xây dựng cộng đoàn xã hội chỉ có thể là : TỤ DO, BÌNH ĐẲNG, CÔNG LÝ, SỰ THẬT và LÒNG NHÂN ÁI.

Trần Văn Khuê